Bấm huyệt theo phương pháp y học cổ truyền và massage toàn thân
Bấm huyệt là một môn khoa học- thuộc phạm trù ngoại trị trong đông y, trong đó người thầy thuốc sau khi nghiên cứu tình trạng bệnh (bằng các phương pháp chẩn đoán và hỗ trợ chẩn đoán của Y học hiện đại (YHHĐ) và Y học cổ truyền (YHCT) thì dùng kỹ xảo thủ pháp để trị liệu. Bấm huyệt thông qua thủ pháp tác động lên vị trí nhất định trên bề mặt cơ của cơ thể, nhằm điều chỉnh tình trạng sinh lý, bệnh lý, điều tiết chức năng tạng phủ, từ đó đạt được hiệu quả trị liệu.
Nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu (cả lý luận và thực tiễn) đều đã khẳng định rằng, phương pháp điều trị này được dựa trên những nguyên lý trị liệu cơ bản của YHHĐ và YHCT. Dưới đây là một số nguyên lý cơ bản của phương pháp trị liệu bấm huyệt:
1. Điều chỉnh những sai lệch giải phẫu
YHHĐ và YHCT đều nhận thấy một số bệnh tật được bắt nguồn từ sự mất cân bằng trọng lực của cơ thể lên hệ thống xương khớp, đặc biệt là cột sống và khung chậu. Sự mất cân bằng này thường xảy ra khi chúng ta vận động quá nhiều, quá ít hoặc sai tư thế (Chẳng hạn như: lao động hay luyện tập, thi đấu thể dục thể thao quá sức, tư thế không đúng; hoặc do cuộc sống quá ít vận động làm cho hệ thống cơ, dây chằng quá yếu không chịu được sức nặng của bản thân cơ thể;...) gây di lệch các khớp xương làm ảnh hưởng đến các chức năng liên quan dẫn đến các bệnh tại chỗ như: đau lưng, đau cổ... và các bệnh ở xa do thần kinh, mạch máu bị chèn ép. Vì vậy nắn chỉnh lại các di lệch giải phẫu là trị liệu nguyên nhân hay trị liệu cơ bản.
Khớp xương di lệch, mất cân bằng trương lực giữa các nhóm cơ hay những bệnh chứng do sự dị thường của kết cấu giải phẫu ở các bộ phận có liên quan gây ra thì đều có thể thông qua lực cơ học trực tiếp tác động và điều chỉnh. (lực nắn chỉnh phải được sử dụng hợp lý để không gây tổn thương thêm cho bệnh nhân và phải ngược chiều với lực gây tổn thương, di lệch). Bấm huyệt giải quyết các sai lệch giải phẫu, nên các thành phần thần kinh, mạch máu bị chèn ép được giải phóng từ đó giải trừ các bệnh tật liên quan.
Trong thực tế lâm sàng, những sai lệch vị trí giải phẫu rất thường gặp. Không chỉ những chấn thương cấp tính với lực tác động mạnh mới gây di lệch mà các chấn thương mạn tính như ngồi học sai tư thế, một số tư thế lao động, sinh hoạt bất lợi cũng gây ra những di lệch nghiêm trọng như thoát vị đĩa đệm cột sống. Có một số tác giả nước ngoài đã làm thực nghiệm trên động vật: cho thỏ vào cũi ở tư thế cúi đầu, chỉ sau 5 ngày đã thấy có thoát vị đĩa đệm cột sống cổ; thoát vị đĩa đệm còn xuất hiện sớm hơn nữa nếu bổ sung thêm vào môi trường thực nghiệm không khí lạnh và ẩm.
Xoa bóp (trong bấm huyệt trị liệu) tác động đến hệ thần kinh thực vật qua cơ chế phản xạ (phản xạ của hệ thực vật) nhằm điều trị một số chứng và bệnh ở nội tạng như: đái tháo đường, hen phế quản (chống co thắt), hạ huyết áp, tăng nhu động ruột, tăng tiết dịch vị, tăng tiết dịch mật ,...
Phản xạ dựa vào sự liên quan của dãy hạch thực vật hai bên cột sống với nội tạng (xem hình minh hoạ -1) .Vì vậy, cột sống cổ, lưng, thắt lưng là vùng được đặc biệt chú ýý trong xoa bấm, đánh gió cổ truyền.
Sơ đồ hệ thần kinh thực vật
Trong bấm huyệt trị liệu, các kỹ thuật thủ pháp là hết sức quan trọng và phải phù hợp với từng loại bệnh và tình trạng bệnh. Chẳng hạn, bệnh viêm túi mật , có cơ vòng Oddi co thắt, dịch mật bài tiết khó khăn, mà cơ Oddi chịu sự chi phối của hai giây thần kinh giao cảm số 8 và số 9. Khớp đốt sống ngực số 8 và số 9 bị di lệch là một trong những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh này, vì vậy, điều chỉnh sai lệch (nếu có) sẽ là phương pháp trị liệu cơ bản. Tuy nhiên, do bệnh này rất đau đớn nên sẽ khó sử dụng thủ pháp nắn chỉnh ngay, cần ấn nhẹ các huyệt vị có liên quan (đởm du, đởm nang huyệt), sau khi làm giảm đau, mới dùng thủ pháp nắn chỉnh.
2. Nguyên lý “Động tắc thông- Thông tắc bất thống”
Đông y cho rằng sau khi bị tổn thương, kinh mạch bị tắc nên khí huyết không thông, “bất thông tắc thống”. Muốn trị bệnh, điều quan trọng là phải làm cho thông, “thông tắc bất thống”.
2.1. “Động” là ưu điểm của liệu pháp bấm huyệt (vận động liệu pháp), dựa trên nguyên tắc: “Tùng tắc thông”; “Thuận tắc thông”; “Động tắc thông” nhằm:
- Thúc đẩy hoạt động của các cơ quan trong cơ thể;
- Thúc đẩy sự lưu thông của khí huyết;
- Vận động thụ động cơ, xương, khớp;
- Cải thiện và hồi phục mối quan hệ lực học không hài hoà giữa các cơ, từ đó làm giảm và hết các cơn đau.
Tuy nhiên, “Động” – “Tĩnh” cũng phải được kết hợp, trong khi điều trị. Bệnh nhân và thầy thuốc đều phải giữ tình trí yên tĩnh, tư tưởng tập trung, trong động có tĩnh. Sau khi điều trị và luyện tập phải có quãng thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi để cơ thể có thời gian tự hồi phục. Trong khi nghỉ luyện thở theo phương pháp khí công: toàn thân thư giãn, chỉ có cơ hoành lên xuống – là trong tĩnh có động
2.2. Xoa bấm trực tiếp giúp thả lỏng cơ bắp- thư cân thông lạc
Cụ thể là:
- Tăng cường tuần hoàn cục bộ (lưu lượng máu khi cơ được thả lỏng lớn gấp 10 lần so với lúc bị co cơ), giảm sung huyết và phù thũng.
- Nới lỏng phần kết dính
- Nâng cao ngưỡng chịu đau của cơ quan bộ phận.
- Kéo giãn phần cơ bắp bị co rút giúp cho bắp thịt được thả lỏng, cắt đau đớn;
- Cân lạc được sắp xếp lại đúng vị trí, từ đó mới có thể làm cho khí huyết lưu thông, thông thì sẽ không đau.
Như vậy, bấm huyệt đạt được mục đích thư cân hoạt lạc, khí huyết lưu thông - “tùng tắc thông, thông tắc bất thống” (tùng nghĩa là giãn).
2.3. Lý cân chỉnh phục nghĩa là làm cho cân cơ, các khớp xương sai lệch được điều chỉnh trở lại, từ đó mới có thể giúp khí huyết lưu thông, kinh lạc được thông thuận, thuận tức là thông.
Có thể nói rằng, bấm huyệt chữa được cả gốc lẫn ngọn “tiêu bản kiêm trị”.
Tóm lại, “bấm huyệt” là phương pháp chữa bệnh tự nhiên nhất, an toàn nhất, không độc hại và hầu như không có tác dụng phụ. Hiệu quả rõ rệt của bấm huyệt đã được trải nghiệm suốt hàng ngàn năm lịch sử. Cần thay đổi quan niệm xoa bấm là “đơn giản, rẻ tiền, dễ học, dễ làm”, vì nguyên nhân, biểu hiện của mỗi bệnh nhân đều có tính cá biệt rất cao. Người thầy thuốc bấm huyệt cần có kiến thức sâu rộng về y học cơ sở, sinh vật lực học của y học hiện đại, lý luận y học cổ truyền và thành thục kỹ xảo thủ pháp cổ truyền. Ngày nay, dựa trên những tiến bộ của Y sinh học, bấm huyệt ngày càng khẳng định vị trí trong nền Y học hiện đại, đã biến quá trình được chữa bệnh thành quá trình được hưởng thụ và được giới y học gọi là “Y học xanh”. Tuy nhiên, cần có thêm những công trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống để có thể khẳng định và phát huy hơn nữa hiệu quả của các phương pháp điều trị không dùng thuốc nói chung và phương pháp bấm huyệt nói riêng.
Tài liệu tham khảo:1. PGS. TS. Dương Xuân Đạm, “Vật lý trị liệu đại cương nguyên lý và thực hành”, Nhà Xuất bản văn hoá thông tin, Hà Nội 2004.
2. Yanjuntao tuinaxue zhongguozhongyiyao chubanshe 2004.
3. Jirí Dvorak; Vacslav Drorak, “Hướng dẫn thăm khám – chẩn đoán và điều trị bằng tay – Kỹ thuật chuyên khoa về vật lý trị liệu thần kinh - cơ - khớp” (BS.Lê Vinh biên dịch), NXB Y học, Hà Nội 2007.
Tác giả bài viết: TS. Nguyễn Vui - TT Huấn luyện & Đào tạo
Chẩn mạch thường vào lúc sáng sớm, âm khí chưa động, dương khí chưa tán, chưa ăn uống gì, kinh mạch chưa đầy, lạc mạch điều hòa, khí huyết chưa loạn, do đó, có thể tìm thấy mạch bệnh.
1- Thời Gian Xem Mạch
Chẩn mạch thường vào lúc sáng sớm, âm khí chưa động, dương khí chưa tán, chưa ăn uống gì, kinh mạch chưa đầy, lạc mạch điều hòa, khí huyết chưa loạn, do đó, có thể tìm thấy mạch bệnh.Tuy nhiên nếu gặp bệnh thì bất cứ lúc nào cũng có thể chẩn mạch, không cần phảI chẩn mạch vào lúc sáng sớm.
- Trước khi chẩn mạch, nên để cho người bệnh nghĩ 1 lát cho khí huyết được điều hòa.
- Không nên xem mạch khi người bệnh ăn uống qúa no, đói qúa hoặc mới uống rượu, đi xa đến mà mệt mỏi...
- Ngoài ra, ống tay áo người bệnh quá chật, hoàn cảnh chung quanh ồn ào... cũng có thể ảnh hưởng đến việc chẩn mạch.
2- Tư Thế Lúc Xem Mạch.
Người bệnh nên ngồi thẳng thắn, tự nhiên hoặc nằm ngửa, cánh tay nên duỗi ra 2 bên, bàn tay để ngửa cho huyết mạch lưu thông tốt và không ảnh hưởng đến mạch.
Vì nếu người bệnh nằm nghiêng thì cánh tay phía dưới đè lên làm mạch không chạy được. Nếu co tay lại thì bàn tay bị bế tắc, mạch không lưu thông. Nếu để xuôi tay thì máu dồn xuống làm mạch bị ứ trệ, nếu giơ tay lên cao thì khí chạy lên mà mạch nhảy. Nếu co cơ thể lại thì khí bị nén mà mạch bị gò bó. Nếu người cử động thì khí bị nhiễu loạn mà mạch chạy nhanh...”
Thầy thuốc nên ngồi nghiêng đối với người bệnh, dùng tay trái để chẩn mạch ở tay phải người bệnh và ngược lại dùng tay phải chẩn mạch ở tay trái.
3- Định Hơi Thở
Phương pháp chẩn mạch cốt ở tâm hư tĩnh.Thầy thuốc cần ổn định hơi thở, giữ vững tiêu chuẩn: 1 hơi thở ra, hít vào tương ứng với 4 lần mạch đập. Sau đó, căn cứ vào tiêu chuẩn này, tập trung chú ý vào các ngón tay đang đặt trên các bộ vị để thăm dò mạch tượng và số mạch đếm của người bệnh.
4- Cách Đặt Tay Chẩn Mạch
Khi đặt ngón tay xuống, đầu tiên đặt ngón tay giữa vào bộ quan (mé trong chỗ xương cao-ngang với lồi xương quay), rồi đặt luôn 2 ngón tay 2 (trỏ) và 4 (áp út) phía trước và sau thành 3 bộ mạch. Ngón tay trước (trên) là bộ thốn khẩu, ngón tay sau (dưới) là bộ xích. Nếu cẳng tay người bệnh dài thì đặt ngón tay thưa, nếu cẳng tay ngắn thì đặt các ngón tay khít nhau”.
Khi đặt ngón tay (xem mạch) cần phải để đầu ngón tay bằng nhau vì mức độ cảm giác của da ở đầu các ngón tay đang xem mạch không giống (nhạy bén) như nhau... vì vậy, khi cần chẩn mạch, nên dùng chỉ nhĩ (chỗ đầu ngón tay nổi lên như sợi chỉ) để sờ, ấn.
Ba ngón tay của người ta dài ngắn không bằng nhau, vì vậy phải để 3 đầu ngón tay bằng nhau, đốt ngón này ngang đốt ngón kia mới có thể chẩn mạch được. Nhưng da thịt đầu 3 ngón tay thì ngón trỏ nhạy cảm nhất, ngón giữa da dầy, ngón thứ 4 lại dầy và kém nhậy cảm hơn. Vì vậy, phải dùng cạnh của đầu ngón tay như sợi chỉ, gọi là chỉ mục (mắt của ngón tay) ấn lên sống mạch”.
Điều quan trọng hơn nữa là không nên dựa vào mạch đập ở đầu ngón tay của mình mà nhận lầm với mạch đập của người bệnh, vì ở đầu ngón tay của thầy thuốc cũng có động mạch.
Sau khi đặt tay đúng vị trí và đúng phương pháp, thầy thuốc phải biết vận dụng năng lực nặng nhẹ và di chuyển ngón tay để thăm dò mạch tượng.
Chẩn mạch có 3 điều chủ yếu là Cử, Án và Tầm. Nhẹ tay sờ mạch gọi là Cử, nặng tay chẩn mạch gọi là Án, không nặng không nhẹ, uyển chuyển tìm kiếm gọi là Tầm.
Hiện nay các nhà nghiên cứu mạch học nghiêng về cách sau:
+ Sơ (Khinh) Án: Bắt đầu đặt (đụng) ngón tay đến mạch của người bệnh để chẩn bệnh ở phủ.
+ Trung Án: Ấn nhẹ tay xuống 1 chút để biết về Vị khí.
+ Trầm (Trọng) Án: Ấn nặng tay xuống 1 ít để chẩn bệnh ở tạng.
Cách chung, khi chẩn (xem) mạch, nên:
· Xem chung cả 3 bộ (Tổng Khán) để nhận định về tình hình chung (thường được dùng nhất).
· Xem riêng từng bộ phận (Đơn Khán) để đánh gía riêng từng cơ quan, tạng phủ.
Ngoài ra, theo các nhà mạch học thì khi xem mạch còn cần phải chú ý đến 3 yếu tố là Vị Khí, Thần và Căn.
5- Vị Khí:
· Có Vị khí thì sống, không có Vị khí thì chết, vì vậy, mạch lấy Vị khí làm gốc.
· Muốn xét diễn tiến của bệnh tốt hoặc xấu nên lấy Vị khí làm chủ. Cách xét này về vị khí như sau: “Thí dụ, hôm nay mạch còn hòa hoãn mà ngày mai lại Huyền, Cấp thì biết rằng tà khí đang tiến triển, tà khí càng tiến, bệnh càng nặng. Hoặc hôm nay mạch rất Huyền, Cấp nhưng ngày mai lại thấy hòa hoãn thì biết là Vị khí đã đến, Vị khí đến thì bệnh nhẹ dần. Nếu như trong chốc lát mà mới đầu thấy mạch Cấp mà sau đó Hoãn là Vị khí đến, lúc đầu Hoãn mà sau đó Cấp là Vị khí mất”.
6- Thần:
Gọi là thần của mạch tức là mạch đi nhu hòa. Thí dụ như bắt được mạch Vi Nhược thì tuy là Vi Nhược nhưng không đến mức vô lực là có thần, hoặc bắt được mạch Huyền Thực mà trong cái Huyền Thực vẫn thấy nhu hòa, là có thần. Tóm lại, mạch có Vị khí, có Thần đều là có hiện tượng xung hòa. Có Vị khí là có Thần khí, vì vậy, trên lâm sàng, cách chẩn đoán Vị khí và Thần như nhau”.
7- Căn:
- Mười hai kinh mạch trong cơ thể đều nhờ ở chỗ động khí của Thận mà phát sinh. Thận khí còn cũng như cây có gốc (căn) cành lá tuy khô mà gốc chưa khô thì có hy vọng sống được. Thận khí chưa tuyệt thì mạch nhất định có căn. Mạch Trầm để chẩn tạng thận, bộ xích để chẩn về Thận, mạch ở bộ xích mà Trầm, có lực là dấu hiệu mạch có căn.
Khi chẩn mạch phải chú ý đến sáu yếu tố: Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ, ông viết: “Chẩn mạch nên biết sáu chữ: Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ, không hiểu sáu chữ đó thì không phân biệt được âm dương hư thực. Thượng, Lai, Chí là dương, Hạ, Chỉ là âm. Thượng là từ bộ xích lên tới thốn khẩu đến bộ xích, âm sinh ở dương, Lai là từ trong thịt xuất ra chỗ trong da ngoài, sự tăng lên của khí. Khứ là từ chỗ trong da ngoài thịt đi vào thịt vào xương, sự giáng xuống của khí. Ứng là Chí, nghỉ là Chỉ. Câu danh ngôn sáu chữ (Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ) của Hoạt Bá Nhân, các y gia của các thời đại đều cho rằng đã tìm được điều cốt yếu của việc chẩn mạch.
· Thượng, Hạ là chỉ mạch chí thông suốt từ bộ xích đến bộ thốn, chỉ chẩn sát 1 bộ mà phải chú ý đến tình hình cả ba bộ thốn, quan, xích “Ở bộ thốn, mạch Hạ không đến bộ quan là dấu hiệu dương tuyệt, ở bộ xích, mạch Thượng không tới bộ quan là âm bị tuyệt”.
· Lai, Khứ là chỉ sự thăng giáng của mạch. Thăng giáng không cấp bách, nhẹ nhàng, điều hòa là mạch tượng của mạch không có bệnh. Mạch Lai mà Tật, mạch Khứ mà Từ là dấu hiệu trên thực dưới hư (hoặc trong hư ngoài thực). Mạch Lai mà Từ, Mạch Khứ mà Tật là dấu hiệu trên hư dưới thực (hoặc ngoài hư trong thực).
· ‘Chí Chỉ’ là chỉ vào chí và trong thời gian ngắn hay dài của các bộ mạch. Chí để chẩn mạch đến, thời gian ngắn hoặc dài của các bộ mạch. Chỉ thời gian ngắn dài ở bộ thượng có thể xét sự thịnh suy của chân dương để biện về yếu mạch của chân âm. Chỉ thời gian dài ngắn ở bộ hạ có thể xét sự thịnh suy của chân âm để biện về sự mạch yếu của chân dương”.
8- Không nên câu nệ về tính chất đặc thù của từng mạch.
Thí dụ: Khi nói đến biểu là phải quy về mạch Phù, nhiệt là Sác, lý là Trầm, hàn là Trì, mạch Huyền, Cường là Thực, Tế, Vi là Hư... tuy nhiên, phải cần lưu ý đến các yếu tố chân, giả.
“Mạch Phù tuy thuộc về biểu nhưng hễ âm hư, huyết thiếu, khí trung tiêu suy tổn sẽ thấy mạch Phù mà vô lực, vì vậy, không thể cho rằng mạch Phù hoàn toàn liên hệ với phần biểu. Mạch Trầm tuy thuộc về phần lý nhưng hễ ngoại tà mới cảm mà đã vào sâu thì hàn tà bó lấy kinh lạc, mạch khí không thông đạt được, sẽ thấy mạch Trầm, vì vậy, không thể cho rằng mạch Trầm hoàn toàn thuộc về phần lý. Mạch Sác là nhiệt, nhưng chân nhiệt chưa hẳn đã là Sác. Chứng hư tổn, âm dương đều bị khốn quẩn, khí huyết hỗn loạn, hư nhiều, mạch Sác cũng nhiều, vì vậy không thể nói là Sác hoàn toàn thuộc nhiệt được. Trì là hàn nhưng bệnh thương hàn, tà khí mới lui, nhiệt chưa hết, mạch phần nhiều là Trì Hoạt, vì vậy đừng cho rằng Trì hoàn toàn là hàn. Huyền, Cường thuộc Thực nhưng chân âm, vị khí hư quá và các chứng âm dương quan cách (bị ngăn trở), mạch sẽ Huyền, Cường, vì vậy Huyền cũng không hẳn là Thực, Mạch Vi, Tế thuộc hư trường hợp bị đau quá, khí bị bế, vinh vệ bị ủng trệ không thông, mạch sẽ phải ẩn nấp (Phục), vì vậy mạch Phục không phải hoàn toàn là Hư... từ đó có thể suy ra... trong các mạch đều có vấn đề”.
9- Sự Khác Nhau Lúc Mới Đặt Tay Vào Mạch Và Lúc Xem Mạch Một Lúc Thật Lâu.
Có khi mạch mới xem và xem một lúc lâu có sự khác biệt. Thí dụ: Lúc mới xem thấy mạch nổi to, xem một lúc thấy mạch chìm lặng. Hoặc mới xem thấy mạch mềm nhũn, xem lâu lại thấy bật dưới tay. Có khi lúc đầu thấy mạch Huyền, một lúc sau lại là Hoãn.“Khi chẩn mạch loại khách tà bạo bệnh mà mạch Phù là đúng. Nếu bệnh đã lâu, sức đã hư tổn, nên chẩn căn khí làm gốc. Nếu thấy Phù, Đại, ấn tay lâu thấy chìm mất, là hiện tượng chính khí quá hư, không cần hỏi là bệnh lâu hoặc mới nhiễm, tuy rằng chứng mà thấy nóng nhiều, phiền nhiễu do chính khí suy không tự chủ được mà hư dương thoát ra ngoài. Khi mới xem mạch thấy Nhu, Nhuyễn, bắt đầu thấy bật dưới tay là dấu hiệu bệnh ở phần lý, phần biểu không bệnh. Không phải tạng khí bị thụ thương thì là kiên tích ẩn phục bên trong, trường hợp này không thể cho đó là mạch Trầm mà lầm là bị hư hàn. Mới xem thấy mạch hơi Huyền, xem lâu lại thấy hòa hoãn, hễ bệnh đã lâu thì sắp khỏi, khí huyết tuy kém nhưng tạng khí chưa bại. Cách chung, mạch của người bệnh lúc mới đặt tay vào tuy thấy vô lực hoặc Huyền Tế, không hòa hoãn, xem lâu trên mười chí lại thấy điều hòa dần, thì bệnh có thể chữa. Nếu mới xem mạch thấy hòa hoãn nhưng xem lâu lại thấy Vi, Sác không ứng tay hoặc dần dần Huyền, cứng (ngạnh) thì bệnh khó chữa”.
10- Bỏ Mạch Theo Chứng-Bỏ Chứng Theo Mạch.
Thông thường thì mạch và chứng tương ứng với nhau, nhưng có nhiều trường hợp mạch và chứng lại không đi đôi với nhau như dương chứng mà lại thấy mạch âm hoặc âm chứng mà thấy mạch dương... Sách ‘Y Biên’ giải thích rõ như sau: “Phàm bệnh mà và chứng không hợp thì một bên thật, một bên giả, cần phân biệt kỹ. Như bên ngoài tuy phiền nhiệt mà thấy mạch Vi, Nhược thì hư hỏa, hư tướng, lại chịu được công phạt sao?. Nên theo mạch mà chữa chứng chân hư chứ không theo chứng là giả tượng. Hoặc trường hợp bệnh vốn không có phiền nhiệt mà thấy mạch Hồng, Sác thì không phải là hỏa tà. Bệnh vốn không có trướng đầy, ứ trệ mà thấy mach Huyến, Cường thì không phải là chứng thực ở bên trong. Không nhiệt, không trướng lại có thể chịu được phép tả hay sao?. Nên theo chứng hư chứ không theo mạch giả thực... Nếu là tà làm thương tổn bên trong hoặc thực trệ, khí trệ mà bụng trên đau thắt đến nỗi mạch Trầm, Phục hoặc Xúc hoặc Kết, đó là tà bế tắc kinh lạc gây ra. Đã có chứng thực làm căn cứ thì mạch hư tức là gỉa, trường hợp này nên theo chứng chứ không theo mạch. Hoặc như bệnh thương hàn, tay chân gía lạnh, rét run mà mạch thấy Hoạt, Sác, đó là do nội nhiệt làm cách âm. Làm sao có thể biết được? Vì bệnh truyền từ kinh này sang kinh khác chứ không phải trực trúng âm kinh, từ chứng nhiệt chuyển sang hàn. Đã có mạch Sác, Hoạt làm căn cứ thì ngoại chứng là giả hư, cũng theo mạch chứ không theo chứng vậy”.
Trường hợp nào nên bỏ mạch mà theo chứng, Lê Đức Thiếp trong sách ‘Định Ninh Tôi Học Mạch’ đã nhận định:
Nên bỏ mạch theo chứng trong các trường hợp sau:
- Những bệnh mà nhận xét về mạch khó chính xác như những người không thể chỉ căn cứ vào mạch hoặc những người không có bộ mạch để xem.
- Những người thanh cao, 2 tay thường không có mạch, nếu có thì mạch đi rất êm dịu, nhẹ nhàng, bé nhỏ.
- Những người thanh cao, 2 tay thường không có mạch, nếu có thì mạch đi rất êm dịu, nhẹ nhàng, bé nhỏ.
- Những người mạch tay trái thường rất nhỏ hơn tay phải hoặc ngược lại.
- Những người có mạch Phản Quan.
- Những người không may bị cụt một hoặc cả hai tay.
- Những người bị thương ngay vị trí để xem mạch
11. Mạch phản quan
Có người, không tìm thấy mạch ở bộ vị thốn khẩu như bình thường mà lại thấy mạch ở phần trên đỉnh của bờ sau xương quay (ngang huyệt Liệt Khuyết) đi dọc xuống vùng lõm ở hố lào (huyệt Dương Khê), gọi là mạch PHẢN QUAN. Gặp loại mạch này, khi chẩn mạch, phải đặt bàn tay sấp xuống mới bắt được mạch. Loại mạch này có thể do bẩm sinh hoặc do bị chấn thương gây ra.. .
12. Mạch với kỳ kinh bát mạch
¨ Mạch ở tay trái đi từ bộ xích hơi chếch lên bộ thốn và Trầm là mạch ÂM DUY bị bệnh. - Biểu hiện: đau trong tim (mạch Âm Duy đi vào phần âm, chủ về phần vinh, vinh là huyết, huyết thuộc về tâm, vì vậy đau trong tim).
¨ Mạch ở bộ xích thấy lúc thì co vào, lúc duỗi ra và có vẻ Trầm Tế là ÂM KIỀU MẠCH bị bệnh. Biểu hiện: dương khí không đủ mà âm khí vượng, thường hay buồn ngủ, phía ngoài bắp chân dễ chịu mà phía trong căng thẳng (theo Nan thứ 29: dương hoãn mà âm cấp).
¨ Mạch ở tay bên phải đi từ bộ xích hơi chếch lên bộ thốn và Phù là mạch DƯƠNG DUY bị bệnh. - Biểu hiện: thấy nóng, rét (lạnh), (mạch Dương Duy đi vào phần dương, chủ về phần vệ, vệ là khí, khí ở biểu vì vậy thấy nóng lạnh).
¨ Mạch ở 2 bộ thốn thấy lúc thì co vào, lúc duỗi ra và có vẻ Khẩn Tế là mạch DƯƠNG KIỀU bị bệnh. - Biểu hiện: âm khí suy mà dương khí thịnh sinh ra không ngủ được, phía trong bắp chân thì dễ chịu nhưng bên ngoài thì lại căng thẳng (Nan thứ 29 (N. Kinh): âm hoãn mà dương cấp).
¨ Mạch ở 2 bộ quan thấy lúc thì co vào lúc duỗi ra mà có vẻ Hoạt Khẩn là Mạch ĐỚI bị bệnh. Biểu hiện: bụng đầy trướng, eo lưng đau tê, ớn lạnh như ngồi trong nước, phụ nữ thì bụng dưới đau, kinh nguyệt không đều, xích bạch đái.
¨ 6 bộ mạch ở 2 tay để nhẹ mà đều đi Huyền Trường là mạch ĐỐC bị bệnh. Biểu hiện: Sống lưng cứng, không thể cúi ngưả được, uốn ván.
¨ 6 bộ mạch ở 2 tay đi Khẩn Tế mà Trường, ấn kỹ lại thấy đi như hạt châu chạy liên tiếp là mạch NHÂM bị bệnh. Biểu hiện: đàn ông thì bị chứng sán khí, đàn bà thì bị xích bạch đái hoặc tích tụ ở bụng dưới (trưng hà).
¨ 6 bộ mạch ở 2 tay phải ấn thật mạnh mới thấy đi Huyền Trường là mạch XUNG bị bệnh. Biểu hiện: khí từ bụng dưới xông lên, bụng trướng, đau.
13- Quan Hệ Giữa Mạch Và Ngũ Hành
Dùng ngũ hành áp dụng vào mạch ta thấy:
Tay Bên TRÁI: Thận thủy (bộ xích) sinh Can mộc (quan), can mộc sinh Tâm hỏa (thốn).
Tay Bên PHẢI: Mệnh môn hỏa (bộ xích) sinh Tỳ thổ (quan), tỳ thổ sinh Phế kim (thốn).
14- Mạch Và Khí Huyết
Xét về khí huyết với mạch ta có:
+ Bên trái thuộc Huyết: Thận, Can và Tâm. Thận (tàng tinh, tinh sinh huyết ) - Can tàng huyết - Tâm chủ huyết.
+ Bên phải thuộc Khí: Mệnh môn (Tam tiêu) Tỳ và Phế. Tỳ là trung khí - Mệnh môn là nơi chứa nguyên khí - Tam tiêu là đường dẫn khí - Phế chủ khí. Vì vậy, mạch ở bên phải liên hệ với khí.
15- Quan Hệ Giữa Mạch Và Mùa
Mỗi mùa ứng với một tạng nhất định, dù mùa đó cũng chi phối toàn thể các mạch khác trong suốt thời gian đó.
+ Mùa Xuân: Mạch Huyền
· Cây cối xanh tốt vào mùa này, màu xanh ứng với màu của Can, do đó có mạch Huyền (mạch của Can).
· Mùa xuân dương khí bắt đầu phát (thiếu dương) nhưng khí lạnh vẫn chưa hết, khí cơ còn có hiện tượng ước thúc, vì vậy mạch tượng thấy đầu thẳng mà dài, giống như giây đàn (Huyền).
+ Mùa Hè: Mạch Hồng
· Cây cối lớn lên, sức nóng của mùa hè bùng lên, thiêu đốt vạn vật như lửa bùng lên (Hồng).
· Vào mùa này, vạn vật tươi tốt, thịnh vượng, mạch đến thì thịnh mà đi thì suy, vì vậy sách ‘Nội Kinh’ gọi là mạch Câu.
+ Mùa Thu: Mạch Mao
· Mọi vật bắt đầu thu lại, lá cây khô đi và rụng giống như lông, do đó mạch của mùa thu là mạch Mao.
· Thời điểm này, dương khí bắt đầu suy, thế mạch đã giảm chỉ thấy Phù. Sách ‘Nội Kinh’ gọi là mạch Mao là hình dung thể mạch đến ứng dưới tay thấy nhẹ như lông (Mao).
+ Mùa Đông: Mạch Thạch
· Mọi vật thu giữ lại, tàng trữ tất cả khả năng mạnh mẽ của mình để sống qua cái lạnh giá, vì vậy, mạch của mùa đông là mạch Thạch.
· Mùa đông vạn vật bế tàng, thế đến của mạch khí trầm mà có sức bật vào ngón tay, sách ‘Nội Kinh’ gọi là mạch Thạch là hình dung mạch đến ứng vào tay có lực cứng như cục đá (Thạch).
+ Tứ Quý: Tứ Quý là chuyển tiếp giữa các mùa, vì vậy thường mang đặc tính ôn hòa, do đó mạch của Tứ Quý là mạch Hoãn.
16- Quan Hệ Giữa Mạch Và Lục Dâm. (Ngoại Tà)
· Hàn làm hại (thương) Thận vì vậy có mạch Khẩn.
· Thử làm hại (thương) Tâm vì vậy có mạch Hư.
· Táo làm hại (thương) Phế vì vậy có mạch Sáp.
· Thấp làm hại (thương) Tỳ vì vậy có mạch Nhu.
· Phong làm hại (thương) Can vì vậy có mạch Phù.
· Nhiệt làm hại (thương) Tâm bào vì vậy có mạch Nhược.
17- Mạch Và Thất Tình (Nội Nhân)
· Hỷ thương Tâm gây nên mạch Hư.
· Tư thương Tỳ gây nên mạch Kết.
· Ưu thương Phế gây nên mạch Sáp.
· Nộ thương Can gây nên mạch Nhu.
· Khủng thương Thận gây nên mạch Trầm.
· Kinh thương Đởm gây nên mạch Động.
· Bi thương Tâm bào gây nên mạch Khẩn.
18. Mạch Và Nam Nữ
“Mạch của phụ nữ thường nhu nhược (yếu) hơn mạch của nam giới”.Khi Xem mạch ‘Nam Tả Nữ Hữu’. Xem mạch, phái nam xem bên tay trái (làm chính), phái nữ xem bên tay phải (làm chính). “Xem mạch phái nam, mạch tay trái (dương) mạnh hơn tay phải (âm) là dương nhiều hơn âm là thuận. Ngược lại, mạch tay phải mà mạnh hơn tay trái là âm nhiều hơn dương không thuận, tức là người nam đó bị âm thịnh dương suy. Xem mạch người nữ mạch tay phải (âm) mạnh hơn tay trái (dương) là âm nhiều hơn dương là thuận. Ngược lại, nếu mạch tay trái mạnh hơn tay phải là dương nhiều hơn âm không thuận, tức là người nữ đó bị dương thịnh âm suy. Như vậy, việc xem ‘Nam Tả Nữ Hữu’ chủ yếu chỉ để xem âm dương thuận hoặc nghịch đối với người đó chứ không nhất thiết phải theo đúng quy cách trên.
Điều chủ yếu trong câu ‘Nam Tả Nữ Hữu’ là chú ý vào hai bộ xích của cả nam lẫn nữ.
+ ‘Nam dĩ tả xích nhi tàng tinh’ hoặc ‘Nam dĩ tả xích vi tinh phủ’ (Nam tàng trữ tinh khí ở bộ xích bên tay trái). Xem mạch người nam, nếu bộ xích tay trái hòa hoãn, có lực thì biết rằng người đó tinh khí sung mãn, khỏe mạnh. Nếu bộ xích tay trái Trầm, Vi vô lực thì không khỏe...
+ ‘Nữ dĩ hữu xích nhi bào hộ’ hoặc ‘Nữ dĩ hữu xích vi huyết hải’ (Nữ liên hệ với bào thai và chứa huyết ở bộ xích). Xem mạch người nữ, nếu bộ xích tay phải hòa hoãn, có lực thì biết rằng tử cung và huyết của họ tốt. Nếu bộ xích tay phải Trầm, Vi vô lực thì không khỏe.
Mười Phương Pháp Để Kiện Thân
và Sống Trường Thọ
(Kiện Khương Trường Thọ Thập Bí Quyết)
Nguyên bản Hoa Ngữ của Thánh Thiên Đường Đạo Tràng ở Đài Trung (Đài Loan) phát hành
Lời tựa của ngài Diêu Trì Kim Mẫu
Sách Y Học Cổ Điển Nội Kinh của Trung Quốc có viết: Thượng công trị vị bệnh, trung công trị dĩ bệnh. Có nghĩa trị bệnh chưa đến là thượng sách, còn trị bệnh đã phát khởi rồi chỉ là trung sách mà thôi. Hay nói đúng hơn người xưa cũng đã quan niệm một cách thiết thực về việc bảo vệ sức khỏe là phòng bệnh tốt hơn chữa bệnh.
Ngày nay, Nam Cực Tiên Ông nhận thấy các môn sinh Thánh Thiên của Ngài đã hết sức cần lao tâm lực để phụng sự đạo pháp và chúng sinh, nên đã giáng cơ chỉ dẫn để phù trợ cho họ luôn được sức khỏe dồi dào. Thứ đến là Ngài cũng nhìn thấy nhân loại tại thế gian điêu linh, đã bị dày vò bởi bệnh hoạn khổ sở và nguy khốn, nên đã cho phổ biến 10 bí quyết phòng chống bệnh tật bằng phương pháp ngoại khoa để tự chữa. Phương pháp này là cách hướng dẫn mọi người tự khám phá ra các điểm trọng yếu của mạch lạc hầu dùng áp chỉ hay án ma để điều hòa sự luân lưu máu huyết trong cơ thể. Cách thức thực hành rất giản dị và chúng ta ai nấy cũng đều có thể áp dụng được một cách dễ dàng.
Ngoài ra, đối với những người đã chịu nhiều đau khổ vì bệnh tật, thuốc men không chữa dứt, áp dụng thêm phương pháp ngoại khoa này để phối hợp chữa trị thì kết quả sẽ càng hữu hiệu thấy rõ.
Hy vọng những vị có lòng từ tâm, thương yêu đồng loại, hãy vì sự đau khổ của chúng sinh mà phổ biến quyển sách hữu ích này đến tận tay nhiều người thì công đức vô vàn biết mấy.
Thiên Vận Giáp Tý Niên, ngày 12 tháng 2.DIÊU TRÌ KIM MẪU
Đài Trung Thánh Thiên Đường